Xác định alen chủ lực điều khiển tính chống chịu mặn của cây lúa
Nguồn: Rohila JS, Edwards JD, Tran GD, Jackson AK, McClung AM. 2019. Identification of Superior Alleles for Seedling Stage Salt Tolerance in the USDA Rice Mini-Core Collection. Plants (Basel). 2019 Nov 5;8(11). pii: E472. doi: 10.3390/plants8110472.
Stress mặn là yếu tố hạn chế năng suất chủ yếu cho các vùng canh tác lúa trên toàn thế giới. Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá biến thiên di truyền trong tự nhiên trong tập đoàn URMC (rice mini-core collection) của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) về chống chịu mặn ở giai đoạn mạ và xác định QTLs điều khiển tính chống chịu mặn theo phân tích GWAS (genome-wide association study). Trồng lúa theo phương pháp thủy canh với 162 mẫu giống lúa được khống chế theo nghiệm thức có giá trị EC = 6,0 dS m-1 ở giai đoạn cây lúa 3-4 lá. Kết quả: 59,4% mẫu giống lúa này thuộc nhóm nhiễm mặn, 23,9% thuộc nhóm chống chịu trung bình và 16,7% thuộc nhóm chống chịu tốt. Pokkali là giống lúa chống chịu tốt nhất, Nerica-6 là giống lúa nhiễm mặn nhất. Theo quy trình đánh giá của IRRI, tám biến số (tính trạng nông học) có liên quan chặt với chống chịu mặn. Kết quả chạy GWAS tập đoàn giống lúa URMC, với hơn ba triệu chỉ thị SNPs, người ta xác định được 9 vùng chứa gen đích điều khiển chống chịu mặn, nằm trên năm nhiễm sắc thể. Không có vùng nào rơi vào vị trí của Saltol QTL được công bố trước đây, cho thấy các gen này khác với kết quả Saltol; cơ chế chống chịu mặn cũng khác trong tập đòa giống lúa URMC. Nghiên cứu chỉ rõ các loci di truyền này giải thích được phần lớn biến thiên kiểu hình chống chịu mặn ở giai đoạn mạ. Mười bốn mẫu giống lúa chịu mặn tốt, 6 loci mới phát hiện, 16 gen ứng cử viên liền kề nhau được xác định; điều ấy sẽ vô cùng hữu ích cho lai tạo giống lúa chống chịu mặn. Những QTLs được xác định có thể được tiến hành kỹ thuật “fine mapping”, minh chứng rõ gen ứng cử viên, và chọn giống nhờ chỉ thị phân tử trong tương lai. Xem https://www.mdpi.com/2223-7747/8/11/472
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét