Lưu trữ Blog

Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2023

Nông dân Trung Quốc, Uganda trồng lúa lâu năm năng suất cao, tiết kiệm chi phí

Nông dân Trung Quốc, Uganda trồng lúa lâu năm năng suất cao, tiết kiệm chi phí

Sau hơn 9.000 năm, cây lúa nước hàng năm hiện nay đã trở thành một loại cây lâu năm có tuổi thọ cao. Sự tiến hóa này có nghĩa là nông dân có thể trồng chỉ một lần và thu hoạch tám vụ mà năng suất không giảm.

 

Một báo cáo mới đã ghi lại các kết quả nghiên cứu nông học, kinh tế và môi trường của việc trồng lúa lâu năm trên khắp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện cây lúa lâu năm tiếp tục thay đổi cuộc sống của hơn 55.752 nông dân nhỏ ở miền nam Trung Quốc và Uganda.

 

Báo cáo nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Nature Sustainability ghi lại các kết quả nông học, kinh tế và môi trường của việc trồng lúa lâu năm trên khắp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện cây trồng được trang bị lại đang thay đổi cuộc sống của hơn 55.752 nông dân sản xuất nhỏ ở miền nam Trung Quốc và Uganda vì những lợi ích về mặt kinh tế mà nó mang lại trong bối cảnh người nông dân ở Trung Quốc đang già đi.


Các nhà nghiên cứu bắt đầu phát triển lúa lâu năm vào năm 1999 với sự hợp tác giữa Học viện Khoa học Nông nghiệp Vân Nam và Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế. Trong những năm tiếp theo, dự án đã phát triển bao gồm Đại học Illinois, Đại học Vân Nam và Đại học Queensland. Một đối tác khác, The Land Institute, đã cung cấp nhân giống cây lâu năm và chuyên môn nông học, cùng với kinh phí giống để đảm bảo tính liên tục của dự án.


Các nhà nghiên cứu đã phát triển cây lúa lâu năm thông qua việc lai tạo, lai giống lúa hàng năm thuần hóa của châu Á với một loại lúa lâu năm hoang dã từ châu Phi. Tận dụng các công cụ di truyền hiện đại để theo dõi nhanh quy trình, nhóm nghiên cứu đã xác định một giống lai có triển vọng vào năm 2007, trồng thử nghiệm trên diện rộng vào năm 2016 và cho ra đời giống lúa lâu năm thương mại đầu tiên, PR23, vào năm 2018.


Nhóm các nhà khoa học quốc tế đã dành 5 năm để nghiên cứu năng suất lúa lâu năm cùng với lúa hàng năm tại vùng trồng ở tỉnh Vân Nam. Với một vài trường hợp ngoại lệ, năng suất lúa lâu năm (6,8 megagam/ha) tương đương với lúa hàng năm (6,7 megagam/ha) trong 4 năm đầu tiên. Năng suất bắt đầu giảm vào năm thứ 5 do nhiều yếu tố khác nhau do đó các nhà nghiên cứu khuyến nghị nên gieo lại lúa lâu năm sau 4 năm.


Do không phải trồng mỗi vụ nên nông dân trồng lúa lâu năm tiết kiệm được gần 60% công lao động và chi tiêu giảm một nửa cho giống, phân bón và các đầu vào khác.


Kết quả cho thấy lợi ích kinh tế của lúa lâu năm khác nhau giữa các địa điểm nghiên cứu, nhưng lợi nhuận dao động từ 17 - 161% so với trồng lúa hàng năm. Ngay cả ở những địa điểm và những năm lúa lâu năm bị giảm năng suất do sâu bệnh, nông dân vẫn đạt được lợi nhuận kinh tế lớn hơn so với trồng cây hàng năm.


Không phải làm đất hai lần một năm, trồng lúa lâu năm cũng mang lại những lợi ích đáng kể về môi trường. Nhóm nghiên cứu đã ghi nhận lượng cacbon và nitơ hữu cơ trong đất cao hơn được lưu trữ trong đất trồng lúa lâu năm. Các thông số chất lượng đất bổ sung cũng được cải thiện.


Một phần khác của nghiên cứu đánh giá khả năng chịu nhiệt độ thấp của lúa lâu năm, với mục tiêu dự đoán vùng phát triển tối ưu của nó trên khắp thế giới. Mặc dù tiếp xúc đáng kể với khả năng mọc lại hạn chế trong thời tiết lạnh, nhóm nghiên cứu dự đoán cây trồng có thể hoạt động ở một loạt các địa điểm không có sương giá.


Mặc dù đã tiến hành thử nghiệm tại trang trại và phát hành ba giống lúa lâu năm làm sản phẩm thương mại ở Trung Quốc và một ở Uganda, các nhà nghiên cứu vẫn chưa hoàn thành việc tinh chỉnh cây trồng. Họ có kế hoạch sử dụng cùng các công cụ di truyền hiện đại để nhanh chóng đưa các đặc điểm mong muốn như mùi thơm, khả năng kháng bệnh và chịu hạn vào cây trồng mới, có khả năng mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn cầu.

Trung Quốc phát triển giống lúa lai kỳ lạ: Gieo trồng một lần thu hoạch trong nhiều năm

 Trung Quốc phát triển giống lúa lai kỳ lạ: Gieo trồng một lần thu hoạch trong nhiều năm

Khi nghe thông tin về giống lúa mới có thể thu hoạch nhiều năm mà không cần trồng lại, ông nông dân người Quảng Tây (Trung Quốc) Liang Yuxin đã rất háo hức muốn được thử nghiệm nó.

 

Liang là một trong hơn 40.000 nông dân nhỏ lẻ tại Trung Quốc quyết định trồng giống lúa mới này. Liang Yuxin chia sẻ với tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (Hong Kong, Trung Quốc) rằng nếu ông thử nghiệm thành công, điều đó sẽ tạo động lực cho nhiều nông dân khác trong địa phương.

 

Nông dân Liang Yuxin chia sẻ: “Có rất nhiều mảnh đất bị bỏ hoang ở các vùng nông thôn miền Nam Trung Quốc và chi phí trồng trọt lại cao. Nhưng nếu tôi có thể trồng lúa một lần để thu hoạch nhiều năm thì chi phí giảm đi rất nhiều”.

 

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Vân Nam đã dành hơn 2 thập niên phát triển giống lúa này. Họ lai giữa giống lúa hằng năm đã được thuần hóa của châu Á với giống lúa lâu năm hoang dã của châu Phi để tạo ra giống có tên Lúa lâu năm 23 (PR23).

 

Theo kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí Nature Sustainability, PR23 không chỉ tiềm năng về sản lượng mà còn được cho có thể giúp giảm chi phí trồng trọt và tăng chất lượng đất. Giáo sư Erik Sacks tại Đại học Illinois Urbana-Champaign và là đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết việc cày xới ít thường xuyên đã bảo vệ đất và tạo dựng được hàm lượng chất hữu cơ. Ngoài ra, việc trồng lúa lâu năm cũng giúp tiết kiệm nước.

 

Trong 4 năm đầu tiên, sản lượng của PR23 ở mức trung bình 6,8 tấn/ha/vụ mùa, cao hơn một chút so với giống lúa tái trồng theo năm đạt 6,7 tấn/ha/vụ mùa.

 

Giống lúa lâu năm không cần gieo hạt, trồng trọt và cày xới trong vài năm, điều đó có nghĩa là nông dân có thể tiết kiệm tới 1.400 USD cho mỗi vụ tiếp theo. Giống lúa lâu năm có thể góp phần cắt giảm đến 60% chi phí lao động.

 

PR23 nằm trong nhóm 29 giống lúa được Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc đề xuất cho người nông dân từ đầu năm nay. Người nông dân cũng tiếp cận được giống lúa này để trồng thương mại từ năm 2018. Năm 2021, tổng số diện tích trồng lúa lâu năm tại Trung Quốc là 15.000 ha.

 

Ông Liang đã trồng giống lúa lâu năm khác là PR25 trên 1 ha đất vào tháng 8 năm nay và sau 3 tháng thu hoạch được trên 8 tấn gạo.

Nhà khoa học nữ giành giải VinFuture: Cứu tinh của những vùng lúa ngập úng

 Nhà khoa học nữ giành giải VinFuture: Cứu tinh của những vùng lúa ngập úng

VinFuture là một trong số ít giải thưởng KH&CN toàn cầu có giá trị lớn vinh danh nhà khoa học nữ. Năm nay, hạng mục này của VinFuture thuộc về GS. Pamela Ronald với công trình phân lập gene Sub1A, cho phép tạo ra các giống lúa biến đổi gene sinh trưởng tốt trong điều kiện ngập úng lên đến hai tuần.

 

Thành tựu của bà mở đường cho việc giải quyết vấn đề lương thực ở các nước chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu.

 

Nghiên cứu về gene lúa chịu ngập Sub1A
 
Là một nhà di truyền học thực vật, con đường đưa GS. Pamela Ronald đi đến nghiên cứu cây lúa không phải là một lựa chọn tình cờ. “Tôi quyết định nghiên cứu về cây lúa vì gạo là nguồn thực phẩm của một nửa dân số thế giới”, GS. Pamela Ronald kể trong cuộc phỏng vấn sau khi nhận giải, “Đó là ước mơ của tôi: giúp đỡ những người nông dân trồng lúa”.
 
Giáo sư Pamela C. Ronald trong khu nhà kính trồng lúa tại ĐH Califonia, Davis năm 2015. Ảnh: MIT
Giáo sư Pamela C. Ronald trong khu nhà kính trồng lúa tại ĐH Califonia, Davis năm 2015. Ảnh: MIT
 
Lúa là loài cây lương thực có vai trò quan trọng như vậy, nhưng ước tính có đến 25% diện tích trồng lúa trên thế giới chịu đe dọa từ lũ lụt hằng năm, và con số này sẽ còn tăng trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay. Dù cây lúa nước là “loài ngũ cốc duy nhất có khả năng chịu ngập ở một mức độ nhất định”, hầu hết các giống lúa sẽ chết nếu như bị ngập trong nước quá ba ngày.
 
Giống FR13A là một ngoại lệ. Là một giống lúa truyền thống được trồng ở bang Odisha, miền Đông Ấn Độ, lúa FR13A có tính trạng đặc biệt cho phép nó chịu ngập hoàn toàn trong nước đến 14 ngày. Tuy nhiên, lúa FR13A chỉ có năng suất thấp và các nỗ lực lai tạo giống này thành giống lúa năng suất và chất lượng cao trong nhiều năm không đem lại kết quả. Nguyên nhân chính là vì các nhà khoa học khi đó không chắc chắn được đâu là gene cần thiết và đâu là vị trí (locus) của nó trong hệ gene, khiến họ “vô tình đưa thêm các gene làm giảm chất lượng chung của gạo”, GS. Ronald từng giải thích trong cuốn sách do bà và chồng viết chung.
 
Thách thức đó đã được nhóm GS. David Mackill, GS. Pamela Ronald và PGS. Xu Kenong tại ĐH California – Davis tiếp nhận. Năm 1996, GS. Mackill và PGS. Xu phát hiện ra locus tính trạng số lượng (QTL) quyết định 70% biến dị kiểu hình chống chịu ngập ở cây lúa. Locus này được đặt tên là Submergence (“Ngập”) 1, hay Sub1. GS. Mackill sau đó cộng tác với phòng thí nghiệm của GS. Ronald - người đã có kinh nghiệm với việc phân lập gene Xa21 kháng bệnh bạc lá cho cây lúa - để cùng nhau phân lập gene chịu ngập từ Sub1. Đến năm 2006, họ xác định và giải trình tự được cụm ba gene trong locus Sub1 - được ký hiệu lần lượt là A, B, C. Trong khi loại gene B và C xuất hiện ở nhiều giống lúa thường không chịu được ngập, gene Sub1A - cụ thể là alen Sub1A-1 - chỉ xuất hiện ở lúa FR13A và đóng vai trò quyết định cho khả năng chịu ngập dài ngày của giống lúa này.
 
Bí quyết của gene Sub1A nằm ở việc nó tác động ức chế quá trình cây lúa phản ứng với các hormone như ethylene và axit gibberellic, do đó làm chậm lại quá trình trao đổi chất, hô hấp và dài thân của cây. Nói cách khác, lúa mang gene Sub1A có thể kích hoạt trạng thái “nghỉ” và ngừng phát triển, bảo tồn năng lượng để chờ đến khi nước rút. Điều đó mang ý nghĩa quyết định, bởi cây lúa khi bị ngập lâu ngày sẽ chết vì không có ánh sáng, khí O2 và CO2 cần thiết cho quá trình quang hợp và hô hấp để sinh trưởng.
 
Cùng với các đồng nghiệp tại Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) tại Philippines, nhóm đã thử nghiệm đưa gene Sub1A vào các giống lúa được trồng phổ biến tại Nam Á và Đông Nam Á. Giống lúa đầu tiên, lúa Swarna-Sub1, được trồng thử nghiệm ở các vùng trũng ngập tại Ấn Độ và Bangladesh vào năm 2007 đã cho thấy thành công vượt trội. “Người nông dân trên thực tế thu hoạch được sản lượng cao hơn đến 60% so với giống Swarna [thường]”, GS. Ronald tự hào khẳng định. “Và cho đến năm ngoái đã có 60 triệu nông dân trồng lúa Sub1”.
 
“Như đảo xanh giữa bể nước”
 
Một trong những thành công của quá trình nghiên cứu lúa Sub1, theo GS. Ronald, là việc nó đóng vai trò giúp đỡ những cộng đồng nông dân yếu thế nhất trong xã hội.
 
Thử nghiệm trồng lúa tại Viện IRRI so sánh giữa lúa mang gene chịu ngập Sub1 với lúa không mang Sub1. Lúa được cho ngập hoàn toàn trong nước trong 17 ngày, cho thấy sự phát triển khác biệt rõ rệt 60 ngày sau khi được tháo nước. Ảnh: Bailey-Serres et.al. 2010.
 
Khi nhắc lại thử nghiệm trồng lúa Sub1 của mình cùng đồng nghiệp Kyle Emerick ở 128 ngôi làng thuộc bang Odisha, GS. Ronald nhận ra: “Các khu vực trũng thấp thường xuyên chịu lụt xưa nay vẫn do các nhóm người thiểu số [đẳng cấp thấp] cư trú, thường là liên tục hàng thế kỷ”, và do đó, theo bà, “công nghệ lúa Sub1 có tác động nhiều nhất đến những người nông dân này, những người nông dân nghèo nhất trên thế giới.”
 
Còn đối với Việt Nam, đường bờ biển dài và địa hình đồng bằng trũng thấp, úng ngập và xâm nhập mặn trở thành vấn đề tác động trực tiếp đến an ninh lương thực và người nông dân trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
 
“Khi biến đổi khí hậu bắt đầu nói đến vào những năm đầu thế kỷ 21, nhiều người ở Việt Nam, ngay cả các lãnh đạo của Bộ Nông nghiệp còn không tin nó đang xảy ra”, GS.TS. Lê Huy Hàm (Viện Di truyền Nông nghiệp và ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội) chia sẻ trong buổi giao lưu với GS. Ronald chiều 21/12: “Mọi người khi đó đều nghĩ rằng biến đổi khí hậu là một cái gì đó rất trừu tượng”.
 
GS. Hàm đã dành nhiều năm nghiên cứu cách thức lai tạo giống cây trồng hòng giúp nông nghiệp Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu. Bất chấp những hoài nghi, chính ông cùng các đồng nghiệp ở Viện Di truyền Nông nghiệp là những người đầu tiên đưa gene Sub1A vào thử nghiệm lai tạo trên cây lúa tại Việt Nam.
 
Đã được biết đến gene Sub1 và một gene lúa chịu mặn khác là Satol qua các đồng nghiệp tại IRRI, năm 2009, nhóm GS. Hàm nhận được sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch DANIDA và các chuyên gia của IRRI trong việc đưa các gene lúa này về Việt Nam. “Chúng tôi đã làm việc với nhau trong ba năm và sau ba năm, chúng tôi đã có được một thử nghiệm rất tốt”, GS. Hàm nhớ lại.
 
Thành quả đầu tiên của nhóm là sự ra đời của giống lúa Khang Dân 18-Sub1 (SHPT2), được trồng thử nghiệm ở nhiều tỉnh phía Bắc, trong đó có Hải Dương. Khả năng chống ngập của lúa Khang Dân 18 mang gene Sub1 nhanh chóng được chứng minh khi đem trồng thử nghiệm tại Tứ Kỳ, vùng “rốn ngập” của cả tỉnh. GS. Hàm kể: “Năm 2016, ở tỉnh Hải Dương xảy ra lũ lụt, khi ấy xung quanh đồng lúa chỉ toàn là nước. Riêng đồng lúa có Sub1 vẫn nổi như một hòn đảo. Nó như một hòn đảo xanh giữa biển nước vậy.”
 
“Đến lúc đó, mọi người thay đổi suy nghĩ về lúa Sub1. Sau đó tỉnh Hải Dương, vì chúng tôi cổ vũ trồng giống lúa này, đến nay họ đã có 10 nghìn héc ta trồng lúa Sub1”, GS. Hàm cho biết.
 
Đến năm 2017, Viện Di truyền Nông nghiệp tiếp tục thử nghiệm giống lúa SHPT3, từ lúa Khang Dân 18 lai với giống PSBRc68 mang gene Sub1, cho khả năng chịu ngập và chịu chua vượt trội. Đến năm 2021, lúa SHPT3 đã được cấp phép lưu hành và đưa về giới thiệu phổ biến ở các tỉnh từ phía Bắc đến Nam Trung Bộ, cũng đã được chứng minh là có sản lượng rất tốt.
 
Hành động vì tương lai của lương thực
 
 
Công trình nghiên cứu về gene lúa Sub1 đã đem đến cho GS. Pamela Ronald và các cộng sự nhiều giải thưởng cao quý, trong đó có Giải thưởng Wolf về Nông nghiệp (Wolf Prize in Agriculture) hồi đầu năm nay, và bây giờ là Giải thưởng VinFuture.
 
Hiểu rõ về vai trò của mình trong quan hệ với người nông dân, GS. Ronald nhấn mạnh: “Là một nhà di truyền học, tôi nghĩ đóng góp của chúng tôi là tạo ra các giống có khả năng, chẳng hạn như kháng bệnh, để chúng có thể phát triển mà không cần người nông dân phun thuốc trừ sâu”.
 
Các nghiên cứu về gene của bà sử dụng kỹ thuật biến đổi gene (genetic engineering, GE) và gần đây là công nghệ chỉnh sửa gene (genome editing) cho các loại cây trồng để chúng có thể mang các tính trạng có lợi. Thế nhưng, các nghiên cứu này đang phải vượt qua nhiều nghi ngờ về vấn đề an toàn. “Thực phẩm biến đổi gene” (Genetically modified foods) hay “thực phẩm kỹ thuật gene” (Genetic engineering foods) trở thành những từ khóa gây nghi ngại trong dư luận các nước phương Tây hơn 10 năm trước, và vài năm trở lại đây bắt đầu xuất hiện trên các diễn đàn tại Việt Nam.
 
“Mấy năm qua đã có một sự quan tâm rất lớn với nông nghiệp và công nghệ gene. Chúng tôi rất hoan nghênh sự tò mò đó”, GS. Ronald nói tại buổi tọa đàm Talk Future hôm 21/12. “Nhưng đôi khi lại có sự sai lệch thông tin trên truyền thông có thể làm mọi người sợ hãi. Vì vậy chúng tôi rất muốn [...] có thể giải ảo công nghệ gene và giải ảo cho nông nghiệp nói chung”.
 
Một nỗ lực của GS. Ronald để giải quyết những hiểu lầm về thực phẩm biến đổi gene là cuốn sách Tomorrow’s table: organic farming, genetics, and the future of food (“Bàn ăn của ngày mai: nông nghiệp hữu cơ, gene và tương lai của lương thực”) mà bà và chồng là nhà nông nghiệp Raoul Adamchak xuất bản vào năm 2008. Bằng văn phong thân thiện và dễ hiểu, cuốn sách của hai người giải thích nhiều vấn đề liên quan đến quy trình nghiên cứu gene, sự an toàn của thực phẩm biến đổi gene và các vấn đề đạo đức và luật pháp đi cùng.
 
“Điều chúng tôi muốn làm trong cuốn sách là đưa cuộc đối thoại này về câu hỏi quan trọng: làm thế nào để chúng ta tạo ra một nền nông nghiệp có thể sử dụng đất và nước tiết chế hơn, chống chịu được áp lực và dịch bệnh mà không cần thêm tác động bên ngoài”, GS. Ronald cho biết. “Chúng tôi cố gắng đưa ra những ví dụ rất chuẩn xác vì thuật ngữ GMO thật sự làm mọi người khó hiểu – nó nghĩa là ‘sinh vật biến đổi gene’. Nhưng tất cả mọi thứ chúng ta ăn đều đã được cải thiện về gene về một mặt nào đó”.
 
Vấn đề này được GS. Ronald nhấn mạnh trong cả hai bài thuyết trình của mình trong Tuần lễ KH&CN VinFuture 2022. Một ví dụ được bà sử dụng là cây ngô: con người trong quá trình 800 năm đã biến đổi gene của cây ngô thông qua quá trình chọn và lai giống, để đến ngày nay, “ta có cây ngô cho ra sản lượng nhiều hơn 100 lần so với cây ngô nguyên thủy”.
 
Sự khác biệt của ngày hôm nay so với trước đây, theo GS. Ronald, là việc chúng ta đã có những kỹ thuật cho phép thực hiện các thay đổi cực kỳ chính xác, với tốc độ rất nhanh chóng. Dẫn chứng cho sự khác biệt này, bà nêu trường hợp giống cà tím Bt biến đổi gene do các nhà khoa học tại Bangladesh và Đại học Cornell phát triển thành công và cho trồng đại trà từ năm 2014. Trước đây, người nông dân phải phun thuốc để diệt sâu bọ gây hại cho cà tím và việc này “vốn gây hại cho cây trồng và đắt đỏ với nông dân nghèo”. Trong khi đó, giống cà tím Bt được thao tác biến đổi gene để mang protein có trong vi khuẩn Bacillus thuringiensis, độc với sâu bọ nhưng hoàn toàn vô hại với con người và môi trường. Kết quả là, đến mùa vụ 2020-2021, cà tím Bt đã được khoảng 65.000 nông dân Bangladesh đón nhận, mang lại năng suất và thu nhập cao hơn trước 20%. Và quan trọng hơn, theo GS. Ronald: “Người nông dân đã giảm lượng phun thuốc hóa học xuống bằng không. […] họ còn có thể lấy hạt và tiếp tục trồng chúng trong vụ tới”.
 
Những nghiên cứu biến đổi gene chính xác do đó mang lại giá trị thiết thực cho những người nông dân nghèo nhất. Đồng thời, các nhà khoa học như GS. Ronald cũng muốn đảm bảo rằng, những công nghệ quan trọng này được cung cấp không hạn chế cho người nông dân thay vì nằm trong tay các tập đoàn nông nghiệp. Bởi vậy, với trường hợp gene Xa21 trước đây và gene Sub1, nhóm nghiên cứu của bà theo đuổi chiến lược không đăng ký độc quyền vì giá trị trực tiếp nó mang lại cho nông nghiệp trồng lúa ở các nước đang phát triển.
 
Cũng giống như với vaccine, các nhà di truyền học thực vật phải tích cực cải chính sai lệch thông tin xoay quanh cây trồng biến đổi gene, và cách tốt nhất để làm việc đó, theo GS. Ronald, là truyền bá kiến thức khoa học “mắt thấy tai nghe” cho người dân. “Rất khó để một người tưởng tượng một cái cây có thể bị ốm và chết đi, và điều đó sẽ ảnh hưởng xấu thế nào đến những thứ họ ăn”, bà nói, phê phán luồng quan điểm cự tuyệt sự can thiệp của công nghệ trong nông nghiệp.
 
Mặt khác, theo bà, cũng “rất khó để cân bằng giữa nhu cầu trồng trọt và bảo vệ môi trường. Mọi trang trại, bất kể là trang trại hữu cơ, trang trại nhỏ, về cơ bản đều phá hủy hệ sinh thái bản địa.”
 
Những nhà khoa học như GS. Ronald đang cố gắng hết sức để duy trì sự cân bằng đó. Dự án mới nhất của bà tập trung vào nghiên cứu rễ cây trồng và hệ vi sinh vật gắn với rễ cây. “Ước tính nông nghiệp thế giới đã làm đất mất đi 487 giga tấn CO2 trong 80 năm qua”, bà chỉ ra. Mục tiêu của Phòng thí nghiệm Ronald là tạo ra hệ thống rễ cây lúa chỉnh sửa gene cho phép tối ưu hóa quá trình rễ cây đưa carbon trở lại đất.
 
Mục tiêu này cần có sự hợp tác của nhiều nhà khoa học trẻ, trong đó có các nhà khoa học Việt Nam: “Tôi tin rằng có rất nhiều nhà khoa học trẻ sẽ làm nên những sáng tạo quan trọng để ứng phó với những thách thức này”, GS. Ronald nói về kỳ vọng của mình với các đồng nghiệp trong buổi giao lưu Talk Future. “Tôi cảm thấy rất lạc quan”.

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2023

Tạo giống lúa lai hiệu quả hơn với kỹ thuật bất dục cái

Tạo giống lúa lai hiệu quả hơn với kỹ thuật bất dục cái

Nghiên cứu do Đại học Baptist Hồng Kông (HKBU) dẫn đầu liên quan đến việc sử dụng kỹ thuật bất dục cái có thể dẫn đến một bước đột phá trong sản xuất hạt giống lúa lai. So với kỹ thuật bất dục đực “ba dòng” thường được sử dụng trong sản xuất hạt giống lúa lai, phương pháp mới này nâng cao hiệu quả sản xuất lúa lai bằng cách loại bỏ những hạt lúa đã được tạo ra do quá trình tự thụ phấn của “dòng phục hồi”.

 

Kỹ thuật mới này cho phép thu hoạch hạt lai hoàn toàn tự động bằng máy móc, có thể giảm đáng kể chi phí thu hoạch. Kết quả nghiên cứu gần đây đã được công bố trên tạp chí Cell Research.

 

Kỹ thuật bất dục đực phát sinh chi phí thu hoạch cao

 

Thực vật tự thụ sẽ duy trì tính đồng hợp tử về bộ gen của chúng và kết quả là sẽ duy trì các đặc điểm giống nhau qua các thế hệ.

 

Ưu thế lai, đề cập đến sự gia tăng tốc độ tăng trưởng nhờ vào dị hợp tử về bộ gen thông qua lai xa của cây bố mẹ, đặc điểm này rất khó khai thác với cây tự thụ. Trong tự nhiên, lúa thường được nhân giống bằng phương pháp tự thụ phấn.

 

Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, các nhà khoa học – tiên phong là giáo sư Yuan Longping, cha đẻ của giống lúa lai – đã phát triển các kỹ thuật nhân giống lúa lai bằng cách khai thác các gen đực bất thụ và những kỹ thuật này có thể tạo ra các hạt lai với khả năng tự sinh sản bình thường, thụ phấn cho cây lúa với số lượng lớn. Trung Quốc và các nước khác trên thế giới đã sử dụng rộng rãi kỹ thuật bất dục đực để sản xuất hạt giống lúa lai và nó giúp gia tăng năng suất lúa một cách đáng kể.

 

Kỹ thuật bất dục đực đầu tiên được sử dụng để tạo ra giống cây trồng là trên lúa, cây thuộc "dòng bất thụ đực" của lúa được dùng để nhận phấn hoa. Các giống lúa từ "dòng phục hồi" có khả năng sinh sản bình thường đóng vai trò là cây cho phấn hoa. Hai dòng này được trồng gần nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển phấn hoa trong quá trình tạo giống. Tuy nhiên, thông qua đó hạt tự thụ phấn của dòng phục hồi cũng được hình thành và chúng phải được loại bỏ thủ công để tránh trộn lẫn với hạt lai trước khi thu hoạch bằng máy, dẫn đến chi phí thu hoạch cao.

 

Về lý thuyết, sử dụng lúa bất dục cái làm "dòng phục hồi" là lý tưởng nhất vì nó không thể tạo ra bất kỳ hạt giống tự thụ phấn nào. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đã không được áp dụng vì tế bào mầm của lúa cái bất dục vẫn cực kỳ hiếm trong tự nhiên và cây cái bất dục rất khó tự sinh sản.

 

 

Đột biến TFS1 biểu hiện bất dục cái

 

Sau gần một thập kỷ nghiên cứu liên tục, một nhóm nghiên cứu do giáo sư Zhang Jianhua, chủ nhiệm Khoa Sinh học tại HKBU, dẫn đầu, đã xác định được đột biến gen "bất dục cái đầu tiên nhạy cảm với nhiệt tự phát" (TFS1) ở một giống lúa ưu tú trong quá trình canh tác lúa. Đột biến gen này thể hiện tính bất dục cái của cây trong điều kiện nhiệt độ cao hoặc thường xuyên (tức là trên 25°C) và khả năng sinh sản được phục hồi một phần trong điều kiện nhiệt độ thấp (tức là 23°C). Nó không có bất kỳ khiếm khuyết nào về sự tăng trưởng sinh dưỡng của chính nó.

 

Nhóm nghiên cứu đã quan sát thấy rằng cây lúa có đột biến gen TFS1 có thể tạo ra phấn hoa khỏe mạnh với khả năng sinh sản đực bình thường. Cây lúa có khả năng sinh sản bình thường có thể tạo hạt bình thường sau khi nhận hạt phấn từ cây lúa mang đột biến gen TFS1. Các cuộc điều tra sâu hơn cho thấy rằng trong điều kiện nhiệt độ cao hoặc thường xuyên, sau khi phấn hoa rơi vào đầu nhụy của cây lúa có đột biến gen TFS1, các ống phấn hoa phát triển từ phấn hoa không thể đi vào túi phôi. Do đó, phôi không thể phát triển và hạt không thể được sản xuất. Nhưng trong điều kiện nhiệt độ thấp, khả năng thụ phấn và phát triển của phôi được phục hồi một phần.

 

Sau khi phân tích di truyền bằng cách sử dụng kỹ thuật phân tử và nhân bản gen, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng đột biến gây vô sinh cái được tạo ra bởi một đột biến điểm trong vùng gen của Argonaute7 (AGO7), một thành viên của phức hợp protein Argonaute (AGO) chịu trách nhiệm sản xuất nhiều RNA can thiệp nhỏ, cụ thể là tasiR-ARF. Cơ chế điều hòa xuôi dòng của các tasiR-ARF này điều chỉnh lối vào của ống phấn hoa vào túi phôi, nhưng nó không thành công trong điều kiện nhiệt độ cao hoặc thường xuyên ở cây lúa có đột biến TFS1, và do đó không thể thực hiện được quá trình thụ phấn kép.

 

Không cần loại bỏ 'dòng phục hồi' trước khi thu hoạch

 

Để đánh giá tiềm năng của việc sử dụng TFS1 như một công cụ di truyền để sản xuất lúa lai, nhóm đã tiến hành thử nghiệm thực địa ở Hồng Kông và tỉnh Hồ Nam ở Trung Quốc. Đột biến gen TFS1 đã được đưa vào ba giống lúa bằng cách xâm nhập và chỉnh sửa bộ gen để tạo ra các tế bào mầm có tính bất dục cái nhạy cảm với nhiệt. Chúng đóng vai trò là "dòng phục hồi" để tạo ra phấn hoa. Ba giống lúa bất dục đực khác được sử dụng làm “dòng bất dục đực”.

 

Nhóm nghiên cứu đã trồng riêng các "dòng phục hồi" bên cạnh "dòng bất dục đực" như trong nhân giống lai truyền thống hoặc trộn chúng ngẫu nhiên trong khu ruộng khi trồng. Trong cả hai cách trồng, hơn 30% số bông của "dòng bất dục đực" ở Hồng Kông và 40% ở tỉnh Hồ Nam tạo ra hạt lai. Tỷ lệ tạo hạt giống tương tự như năng suất sản xuất lai bằng cách sử dụng "dòng phục hồi" hiện tại, nhưng hạt giống lúa lai có thể được thu hoạch mà không cần loại bỏ "dòng phục hồi".

 

Tiềm năng thương mại lớn với chi phí thu hoạch giảm

 

Giáo sư Zhang cho biết: “Ngày nay, sản xuất hạt giống lúa lai vẫn là một quy trình sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp. Tính bất dục cái, nếu nó có thể được đưa vào làm 'dòng phục hồi' với tư cách là cây cho phấn thuần túy, có khả năng giảm chi phí rất lớn, bởi vì các dòng bố mẹ của lúa lai có thể được trồng và thu hoạch cùng nhau bằng máy mà không cần lo lắng về độ thuần của hạt giống.

 

“Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cung cấp một yếu tố đáp ứng cho việc nhân giống lúa lai được cơ giới hóa hoàn toàn và công cụ di truyền của chúng tôi đã cho thấy nhiều hứa hẹn cho các ứng dụng thương mại. Để tối đa hóa năng suất lúa, chúng tôi cần tiếp tục thử nghiệm trên diện rộng để cải thiện khả năng tiếp nhận giữa dòng lúa bất dục cái và dòng bất dục đực”.

Di truyền tính kháng Nilaparvata lugens và Cnaphalocrocis medinalis trong gốc lúa chét

 Di truyền tính kháng Nilaparvata lugens và Cnaphalocrocis medinalis trong gốc lúa chét

Nguồn: Qian-Qian DengMao YeXiao-Bao WuJia SongJun WangLi-Na ChenZhong-Yan ZhuJing Xie. 2022. Damage of brown planthopper (BPH) Nilaparvata lugens and rice leaf folder (LF) Cnaphalocrocis medinalis in parent plants lead to distinct resistance in ratoon rice. Plant Signal and Behavior; 2022 Dec 31;17(1):2096790.

 

Phản ứng tự vệ khi có sâu hại tấn công là phản ứng hết sức chuyên biệt (specific), trong khi đó, cây trồng có thể kích thích những phản ứng tự vệ khác tương ứng với với xâm nhiễm gây hại của loài sâu tấn công thuộc “herbivorous” khác nhau. Rầy nâu (BPH) Nilaparvata lugens, là côn trùng chích hút nhựa cây lúa, trong khi, sâu cuốn lá nhỏ (LF) Cnaphalocrocis medinalis, là côn trùng ăn lá. Cả hai đầu là những “herbivores” chuyên nghiệp săn tìm cây lúa để phá hại. Muốn định tính bản chất kháng một cách khác biệt này bởi cách thức gây hại của hai herbivores chuyên nghiệp, người ta tiến hành thực hực nghiên cứu tính kháng đối với hai loài côn trùng ấy trong giai đoạn tăng trưởng của cây lúa gốc (parent) và đánh giá tính kháng của cây chủ ở giai đoạn lúa chét (ratoons). Ở đây, người ta ghi nhận LF và BPH kích thích phản ứng hệ thống tự vệ hết sức khác nhau trong cây lúa gốc (parent), LF kích thích nhiều hơn tín hiệu tích tụ JA và OsAOS, OsCOI1 transcripts, trong khi đó, BPH sự tích tụ cao hơn SA và OsPAL1 transcripts. Bên cạnh đó, một sự mất đi tạm thời tính kháng LF được quan sát trong nghiệm thức dòng lúa OsAOS, OsCOI1 RNAi. Cây lúa chét (ratoon) tái sinh từ lúa gốc (parents) thu nhận sự nhiễm của sâu LF trước đó, biểu hiện hàm lượng jasmonic acid (JA) cao hơn và mức độ gia tăng các phân tử transcripts của gen liên quan đến tự vệ gắn liền với truyền tín hiệu JA, trong khi cây lúa chét từ lúa gốc thu nhận sự xâm nhiễm trước đó của rầy nâu BPH thì biểu hiện mức độ cao hơn salicylic acid (SA) và gia tăng mức độ phân tử transcripts của gen liên quan đến phản ứng tự vệ với sự truyền tín hiệu SA. Hơn nữa, sự xâm nhiễm trước đó của LF rõ ràng là đã làm tăng tính kháng của cây lúa chét đối với LF, trong khi sự xâm nhiễm trước đó của BPH dẫn đến làm tăng tính kháng BPH của cây lúa chét. Sự kiện “pre-priming” của tự vệ cây lúa chét đối với LF làm giảm đi đáng kể cây OsAOS và OsCOI1 RNAi, nhưng sự im lặng của OsAOS và OsCOI1 không tiết giảm tính kháng của lúa chét đối với rầy nâu. Kết quả gợi ra rằng sự xâm nhiễm của hai loài côn trùng này (specialist herbivores) có cách ăn khác nhau, cách phá hại khác nhau trong vụ lúa gốc (parent crop) dẫn đến phản ứng tự vệ khác nhau trong vụ lúa chét sau đó, và tính kháng sâu cuốn lá nhỏ có được trong cây lúa chét gắn liền với cách tạo mồi (priming) tín hiệu jasmonic acid trong phản ứng tự vệ của cây lúa.  

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/35876337/

Di truyền gen kháng rầy nâu Bph44 của hệ gen cây lúa

Di truyền gen kháng rầy nâu Bph44 của hệ gen cây lúa

Nguồn: Iwan KiswantoLita SoetopoAfifuddin Latif AdiredjoIdentification of novel candidate of brown planthopper resistance gene Bph44 in rice (Oryza sativa L.). Genome; 2022 Oct 1;65(10):505-511.

 

Rầy nâu (BPH, Nilaparvata lugens Stål) vẫn được xem là nguy cơ lớn nhất cho canh tác lúa. Khai thác nguồn gen kháng rầy mới liên quan đến quần thể rầy nâu đang hiện diện trên vùng trồng lúa cụ thể nào đó luôn luôn được xem là giải pháp hữu ích. Người ta tiến hành phân lập và định vị trên bản đồ di truyền locus mang gen kháng thông qua 175 dòng con lai trong quần thể F2:3 dẫn xuất từ cặp lai Balamawee × PD601. Phân tích genomic để xác định được gen ứng cử viên điều khiển tính kháng BPH. Người ta tìm thấy một locus di truyền mới quy định tính kháng BPH trên vai dài của nhiễm sắc thể 4 liên kết chặt với chỉ thị phân tử Q31 và RM17007 ở quãng phân tử 4.76 và 5.42 cM, theo thứ tự, biến thiên kiểu hình tổng số là 52.21% ở mức độ có ý nghĩa thống kê LOD 29.68. Cơ chế tính chống chịu ảnh hưởng đến bản chất tự nhiên của tính kháng, được biểu thị trong “Functional Plant Loss Index”. Mức độ kháng, cơ chế tính kháng, và bản đồ vật lý cho thấy các gen kháng trong nghiên cứu này khác với kết quả nghiên cứu trước đây, do vậy, người ta đề nghị đây là gen mới có tên là Bph44.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/35863076/

Di truyền tính trạng nẩy mầm hạt và chống chịu mặn của cây lúa

Di truyền tính trạng nẩy mầm hạt và chống chịu mặn của cây lúa

Nguồn: Ying HeWeiting ChenJuhong TanXixiu LuoYanjin ZhouXiaoting GongJuan YaoChuxiong Zhuang & Dagang Jiang. 2022. Rice CENTRORADIALIS 2 regulates seed germination and salt tolerance via ABA-mediated pathway. Theoretical and Applied Genetics December 2022; vol. 135: 4245–4259

 

Một họ gen phụ FT/TFL1 bao gồm gen trong cây lúa CENTRORADIALIS 2, được quen gọi là RCN1, điều hòa tín trạng nẩy mầm hạt thóc và làm gia tăng tính chống chịu mặn thông qua lộ trình tín hiệu ABA. Tổng hợp chất ABA và biến dưỡng ABA để điều tiết các gen thường bị thay đổi ở mức độ biểu hiện gen tương đối khác nhau.

 

Hạt nẩy mầm là một tiến trình sinh học vô cùng phức tạp bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Cho dù có một số lượng gen liên quan đến nẩy mầm hạt đã được báo cáo, nhưng cơ chế phân tử của nội dung điều hòa sự nẩy mầm hạt như thế nào vẫn chưa rõ ràng. Ở đây, các tác giả ghi nhận rằng gen OsCEN2 trong cây lúa có thể điều tiết một cách bị động hiện tưởng nẩy mầm hạt thóc. Tốc độ nẩy mầm có hạt thóc có gen OsCEN2-RNAi nhanh hơn đáng kể trong khi hạt có sự biểu hiện mạnh mẽ gen OsCEN2 (hạt OE) chậm hơn rất nhiều lần so với đối chứng (wild type: WT). Kết quả chạy qRT-PCR cho thấy sự biểu hiện gen OsCEN2 được tăng lên ở giai đoạn đầu của hạt nẩy mầm. Sử dụng nguồn abscisic acid (ABA) từ bên ngoài đưa vào hạt và đưa vào cây mạ cho thấy hạt và cây mạ có gen OsCEN2-OE hết sức nhạy cảm với ABA khi lúa nẩy mầm và tăng trưởng sau nẩy mầm, theo thứ tự. Việc xác định hàm lượng ABA đưa vào hạt để xử lý cho thấy hàm lượng ABA của hạt lúa OsCEN2-RNAi thấp hơn đáng kể, trong khi, hạt lúa OsCEN2-OE biểu thị cao hơn. Bên cạnh đó, cây lúa transgenic thay đổi tính chống chịu mặn bởi mức độ ABA thay đổi. Hơn nữa, những khác biệt quan sát được trong sự biểu hiện các gen có liên quan đến tổng hợp và biến dưỡng ABA trong các hạt lúa thử nghiệm này thuộc dòng lúa transgenic OsCEN2. Kết quả nghiên cứu xác định OsCEN2 điều tiết tốc độ nẩy mầm bởi ảnh hưởng của hàm lượng ABA trong giai đoạn lúa nẩy mầm và cung cấp một luận điểm khoa học phục vụ lúa sạ thẳng.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-022-04215-8

Yếu tố phiên mã Golden 2 và QTL điều khiển tính kháng bệnh lùn sọc đen cây lúa

 Yếu tố phiên mã Golden 2 và QTL điều khiển tính kháng bệnh lùn sọc đen cây lúa

Nguồn: Xuejuan LiFeng LinChenyang LiLinlin DuZhiyang LiuWenjuan ShiJianying LvXiaoyan CaoYing LanYongjian FanYijun Zhou & Tong Zhou. 2022.  Golden 2-like transcription factor contributes to the major QTL against rice black-streaked dwarf virus disease. Theoretical and Applied Genetics December 2022; vol. 135: 4233–4243

 

Hình: Triệu chứng của bệnh Southern rice black-streaked dwarf virus (SRBSDV).

 

Một QTL chủ lực đã được phân lập trên nhiễm sắc thể 6 của giống lúa Wuke; người ta tìm hiểu khả năng biểu hiện mạnh mẽ (overexpression) của QTL và thực hiện đột biến knockdown để xác định được gen OsGLK1 – gen ứng cử viên của cây lúa điều khiển tính kháng bệnh SRBSDV (Rice black-streaked dwarf virus): bệnh lùn sọc đen do siêu vi.

 

Bệnh SRBSDV là một trong những bệnh siêu vi gậy thiệt hại năng suất lúa trầm trọng ở Trung Quốc và Đông Á. Tiến bộ trong các chương trình cải tiến giống lúa cao sản kháng bệnh SRBSDV rất hạn chế do thiếu kiến thức về các gen đích có chức năng. Trong nghiên cứu này, người ta tìm ra một QTL chủ lực đối với RBSDV (rice black-streaked dwarf virus) độc lập với gen kháng “rầy nâu” SBPH (small brown planthopper) trên nhiễm sắc thể 6, kích thước phân tử của quãng chứa gen đích là 1.8 Mb; thống qua kết quả phân tích quần thể con lai F2:3 của tổ hợp lai có nguồn giống lúa kháng bệnh “Wuke”. Những phân tử transcripts biểu trưng của gen có trong vùng đích này được người ta phân tích. Ba gen biểu hiện biến thiên về chuỗi trình tự amino acid trong những domains có chức năng rõ ràng được sàng lọc phục vụ cho chuyển nạp gen (transformation). Các thí nghiệm minh chứng khả năng biểu hện gen mạnh mẽ (overexpression) cho thấy có một gen biểu hiện tính kháng được tăng cường có ý nghĩa thống kê sinh học so với đối chứng. Gen này mã hóa protein có domain Myb và yếu tố phiên mã mang tên Golden 2-like1 (viết tắt là GLK1). Bên cạnh đó, gen đột biến bằng kỹ thuật knockdown OsGLK1 có trong các dòng lúa được người ta nghiên cứu. Khả năng kháng bệnh giảm xuống đáng kể không có gen này so sánh với đối chứng (wild type). Tổng hợp lại, cả kết quả overexpression và knockdown đều khẳng định mạnh mẽ rằng gen OsGLK1 có vai trò quan trọng đối với tính kháng bệnh RBSDV và góp phần vào hình thành nên QTL chủ lực (major QTL) nói trên. Nghiên cứu vạch ra con đường minh chứng cơ chế phân tử về tính kháng bệnh RBSDVD và cung cấp những chỉ thị phân tử hữu ích gắn với gen đích OsGLK1 phục vụ chiến lược MAS có hiệu quả.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-022-04214-9

Di truyền tính trạng khối lượng hạt lúa thông qua “meta QTL”

Di truyền tính trạng khối lượng hạt lúa thông qua “meta QTL”

Nguồn: C AnilkumarRameswar Prasad SahT P Muhammed AzharudheenSasmita BeheraNamita SinghNitish Ranjan PrakashN C SunithaB N DevannaB C MarndiB C PatraSunil Kumar Nair. 2022. Understanding complex genetic architecture of rice grain weight through QTL-meta analysis and candidate gene identification. Sci Rep.; 2022 Aug 16;12(1):13832.  doi: 10.1038/s41598-022-17402-w.

 

Quantitative trait loci (QTL) điều khiển tính trạng khối lượng hạt thóc được người ta phân lập thồng qua quẩn thể lập bản đồ “bi-parental” rồi trồng trên nhiều vùng sinh thái khác nhau. Người ta thấy rằng kết uqa3 thu thập được rất mâu thuẫn. Vai trò của chỉ thị phân tử hết sức khiêm tốn để phục vụ chọn giống; chương trình “dòng hóa trên cơ sở bản đồ di truyền” cũng vậy. Việc xác định vùng QTL mang tính chất nguyên tắc chung (consensus QTL) thông qua các quần thể con lai nói trên rất cần thiết để khai thác các chỉ thị phân tử trong chương trình cải tiến giống lúa. Bây giờ, người ta sử dụng phương pháp “QTL meta-analysis”. Người ta đã đối chiếu thông tin QTL điều khiển khối lượng hạt thóc từ rất nhiều nghiên cứu khác nhau thông qua các quần thể nói trên, tại các ruộng thí nghiệm khác nhau để tìm ra được cái gọi là “constitutive QTL” điều khiển tính trạng khối lượng hạt thóc. Thông qua nguồn thông tin của 114 phân tích meta QTL, người ta tìm thấy có ba Meta-QTL (MQTL) có ý nghĩa thống kê sinh học quy định tính trạng khối lượng hạt thóc, định vị trên nhiễm sắc thể số 3. Theo nguyên tắc “gene ontology”, ba MQTL này có tất cả 179 gen. Trong đó, có 25 gen khẳng định vai trò thuộc chức năng phát triển của gen. Chạy trình tự amino acid BLAST của những gen ấy, kết quả cho thấy khả năng bảo tồn có tính chất hình thái học (orthologue) của chúng trong các loài mễ cốc (cereals) với chức năng rất giống nhau. MQTL3.1 bao gồm các gen OsAPX1, PDIL, SAUR,  OsASN1, chúng gắn liền với tính trạng phát triển hạt thóc, được phát hiện có vai trò sinh tổng hợp và cơ chế biến dưỡng mang tính chất asparagine, chúng rất cần thiết trong điều tiết giữa nguồn và sức chứa (source-sink regulation). Năm gen ứng cử viên được phân lập và phân tích khả năng biểu hiện gen ấy cho thấy rằng có một vai trò hết sức có ý nghĩa vào giai đoạn phát triển hạt đầu tiên. Thông tín trình tự gen theo kết quả của dự án “3 K rice genome” cho thấy hiện tượng mất đoạn của sáu bases mã hóa serine và alanine ở vị trí exon cuối cùng của gen OsASN1 dẫn đến kết quả tổng hợp ra protein có motif là “α-helix”, nó có ảnh hưởng tiêu cực  trong lộ trình sinh tổng hợp asparagine trong giống lúa có khối lượng hạt nhỏ. Bên cạnh đó,  MQTL3.1 được người ta minh chứng bằng marker RM7197 trong tập đoàn giống lúa có kiểu hình hạt thật nặng hoặc thật nhẹ (extreme phenotypes). MQTL giúp chúng ta xác định được và minh chứng được gen điều khiển tính trạng khối lượng hạt thóc làm cơ sở cho MAS trong cải tiến giống lúa và thực hiện map-based cloning.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/35974066/

 

Hình: Phân bố những  QTL liên quan đến tính trạng khối lượng hạt thóc trên 12 nhiễm sắc thể.