Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

Hệ thống giám sát khí metan trên ruộng lúa: Tiến gần hơn đến các mục tiêu lớn

Hệ thống giám sát khí metan trên ruộng lúa: Tiến gần hơn đến các mục tiêu lớn

Tiên phong phát triển thiết bị giám sát khí metan từ đồng ruộng, TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch HĐQT RYNAN Technologies và Mỹ Lan Group kỳ vọng Hệ thống giám sát này sẽ đem lại dữ liệu chính xác cho việc trồng lúa phát thải thấp - một mục tiêu mà cho đến nay vẫn chưa có cách nào đo đếm kết quả đầu ra một cách hiệu quả 

Việc giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đã trở thành một mục tiêu được Chính phủ chú trọng. Không chỉ góp phần bảo vệ môi trường và đảm bảo thực hiện thành công các cam kết của Chính phủ, việc lượng hóa chính xác được lượng khí phát thải từ hoạt động canh tác lúa còn có thể giúp xác nhận tín chỉ carbon trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới - một hoạt động hoàn toàn có thể mang lại nguồn thu cho Việt Nam.

TS. Nguyễn Thanh Mỹ đã có những chia sẻ thú vị với với Báo KH&PT về chủ đề này.

Xin ông cho biết, điều gì đã thôi thúc ông và công ty phát triển hệ thống giám sát khí metan trên ruộng lúa?

Quyết định số 1490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”. Tôi rất thích thú và mong muốn đóng góp trí tuệ và nguồn lực để dự án thành công vì kết quả của nó sẽ có lợi ích lâu dài cho đất nước.

Theo dữ liệu của RYNAN, đồng bằng sông Cửu Long đang có 1,437,110 héc-ta (ha) canh tác lúa. Trong đó có 63,7% là diện tích canh tác lúa ba vụ, 31,7% là diện tích canh tác lúa hai vụ, và 4,6% là diện tích canh tác lúa một vụ. Tổng thu hoạch lúa năm 2024 là 3,726,667 ha.


Hiện nay, nhà nước đang khuyến khích người nông dân mình canh tác lúa theo quy trình “1 phải, 5 giảm” (phải sử dụng giống lúa có chứng nhận, và giảm lượng giống gieo sạ, phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, lượng nước tưới, thất thoát sau thu hoạch) để hướng đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa trên một triệu ha này. Trong đó, phương pháp ngập khô xen kẽ được cho là có thể giúp giảm đến 50% lượng khí CH4 - lượng khí phát thải chính từ việc trồng lúa.

Song, điều quan trọng là phải làm như thế nào để đo đếm được chính xác lượng khí phát thải. Nếu anh giảm phát thải mà anh lại đo trật lất thì không được đúng không? Đó là lý do hệ thống giám sát phát thải khí metan (CH4) và có tên thương mại là MethanEYE™ PY100 của RYNAN ra đời.


Hệ thống giám sát khí nhà kính trực tuyến của RYNAN tại HTX Phát Tài, xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh - một trong bảy mô hình phát triển bền vững một triệu hecta. Ảnh: RYNAN
Hệ thống giám sát khí nhà kính trực tuyến của RYNAN tại HTX Phát Tài, xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh - một trong bảy mô hình phát triển bền vững một triệu hecta. Ảnh: RYNAN

Hệ thống MethanEYE™ PY100 của RYNAN khác với phương pháp đo phát thải khí CH4 từ ruộng lúa hiện nay như thế nào?

Ở Việt Nam, phương pháp đo phát thải khí nhà kính là sử dụng buồng tích lũy khí theo sổ tay hướng dẫn của PGS.TS. Mai Văn Trịnh. Thông thường, người ta sẽ đặt những cái đế trong suốt vụ lúa, và dùng các buồng tích lũy khí để đặt lên trên mỗi ngày trong khoảng thời gian từ 8:00 - 10:00. Sau đó, họ rút khoảng 50ml khí từ buồng để bơm vào lọ thủy tinh và mang về phòng thí nghiệm để phân tích. Do hoạt động này tốn rất nhiều công lao động nên họ hạn chế việc lấy mẫu, có nơi chỉ lấy mẫu một lần trong tuần rồi lấy kết quả sau phân tích nhân cho 24 giờ và nhân cho 7 ngày.

Với logic của người làm khoa học, tôi nhận thấy rằng việc phân tích mẫu như vậy sẽ không đem lại kết quả chính xác. Phát thải khí metan là một quá trình phản ứng sinh hóa học do vi khuẩn gây ra và bị ảnh hưởng bởi rất nhiều điều kiện như nhiệt độ đất, điều kiện môi trường - lúa có ngập nước liên tục hay không,... Lượng khí phát thải trong thời gian hai tiếng buổi sáng không giống hệt lượng khí phát thải trong cả ngày hay cả tuần được. Nếu chỉ lấy mẫu một lần trong thời gian cố định nhưng lại sử dụng kết quả đó để tính toán phát thải cho nguyên cả vụ lúa thì sẽ không đem lại dữ liệu chính xác.

RYNAN đã làm như thế nào để khắc phục hạn chế này trong hệ thống giám sát khí metan của mình? Đặc biệt là khi sử dụng trong môi trường với thời tiết thường xuyên thay đổi?

Có thể nói hệ thống giám sát khí metan của RYNAN là thiết bị đầu tiên trên thế giới đo tự động được khí CH4 ở mức mg. Các giải pháp khác như thiết bị Eddy Covariance thì rất đắt tiền, máy bay không người lái và vệ tinh thì phải phát thải ở mức 25 tấn khí metan một giờ thì mới phát hiện được.


Trong khi đó, MethanEYE™ của RYNAN cũng có buồng tích lũy khí, nhưng được gắn hai loại cảm biến tự động để đo khí metan theo thời gian thực trong 24/24 giờ. Hệ thống này có thể tự động đo khí metan trực tuyến với nồng độ từ 0.060 ppm, (đơn vị ppm=mg/L); hay từ 78 mg/m2/ngày. Dữ liệu được gửi qua mạng 4G/5G lên Internet cứ mỗi 5 phút một lần. Điều quan trọng là hệ thống không chỉ đo khí metan mà còn thu thập rất nhiều dữ liệu bao gồm: nhiệt độ đất (15cm dưới mặt đất), nhiệt độ mặt đất (1cm dưới mặt đất), nhiệt độ không khí, cường độ ánh sáng và tổng lượng ánh sáng trời trong ngày, mực nước trên ruộng, độ ẩm đất, hàm lượng N, P, K trong đất (từ 1 đến 15cm dưới mặt đất), giá trị pH của đất (từ 1 đến 15cm dưới mặt đất), độ dẫn điện của đất (từ 1 đến 15cm dưới mặt đất). Những dữ liệu trên cũng được gửi lên Internet mỗi 5 phút một lần. Các kết quả sẽ được thể hiện dưới dạng biểu đồ trực quan.

Vấn đề ở đây là buồng tích lũy khí sẽ rất nóng do ánh nắng chiếu vào làm nhiệt độ trong buồng tăng cao. Trong khi đó, cảm biến của thiết bị lại đo dựa trên sự thay đổi nhiệt độ, nếu mình không xử lý tốt thì nhiệt độ trong buồng sẽ làm sai kết quả đo. Do đó, chúng tôi phải chế nhiều thứ ở trong đó để đảm bảo đo chính xác được lượng khí. Trong hệ thống của RYNAN, có hai vùng nhiệt độ: một vùng nhiệt độ ở trong buồng phải cân chỉnh theo nhiệt độ ngoài môi trường, và vùng thứ hai là chỗ tự động lấy mẫu để đo phải luôn giữ ở 25°C. Nhờ vậy, hệ thống tự điều hòa không khí bên trong buồng tích lũy khí metan bằng nhiệt độ môi trường bên ngoài để không ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cây lúa bên trong buồng và hạn chế việc phải di dời buồng sang vị trí khác. Hệ thống cũng tự động đóng mở nắp mỗi ngày để thay bỏ khí metan tích lũy trong ngày và trao đổi với khí bên ngoài. Ngoài ra, mỗi tuần thiết bị sẽ tự động bơm vào buồng 100 ml khí metan rồi tự động đo lại tín hiệu của lượng khí đó - quy trình tự hiệu chuẩn.

Bên cạnh đó, chúng tôi ứng dụng trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật (AIoT) để tạo ra “bản đồ trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI)”, giúp thu thập dữ liệu từ mặt đất và kết hợp với dữ liệu viễn thám tuổi lúa, mực nước ruộng và nhiệt độ đất để giám sát phát thải khí metan theo thời gian thực, nhờ đó không cần phải đầu tư quá nhiều thiết bị.

Có kết quả nào đáng chú ý thu được từ dữ liệu của hệ thống giám sát RYNAN không?

Hiện tại, thiết bị đã được triển khai ở một số vùng trồng lúa như Trà Vinh. Chẳng hạn, vụ mùa thu đông tại HTX Phát Tài canh tác lúa OM5451 kéo dài 91 ngày, thu hoạch được 9.120 Kg lúa tươi/6.123 Kg lúa khô (độ ẩm 14%). Tổng lượng khí metan phát thải là 440,61 KgCH4/ha, tương đương 11.896 KgCO2eq. Như vậy mỗi Kg lúa khô thu hoạch được phát thải 1,943 KgCO2eq. Trong nghiên cứu vào năm 2023 ở ĐBSCL, tổ chức IRRI báo cáo mỗi Kg lúa khô OM5451 chỉ phát thải 0,999 KgCO2eq.

Lượng phát thải khí metan tùy thuộc vào ba yếu tố chính: thứ nhất là lượng rơm rạ bị vùi lại dưới đất sau khi gặt, thứ hai là thời gian ngập nước liên tục trên ruộng, tạo ra môi trường yếm khí và thứ ba là nhiệt độ đất và nhiều yếu tố phụ khác. Nhờ giám sát lượng khí liên tục như vậy, chúng tôi mới thấy rằng nhiều nghiên cứu trước giờ ở Việt Nam đo không chính xác. Thông thường từ 8:00 tới 10:00 sáng là lúc phát thải thấp nhất, sau 12:00 trưa mới bắt đầu phát thải nhiều vì nhiệt độ của đất tăng dần lên. Do đó, nếu chỉ lấy mẫu vào buổi sáng để phân tích thì sẽ đánh giá thấp lượng phát thải, còn nếu chỉ lấy mẫu sau 12:00 thì sẽ đánh giá quá mức lượng phát thải so với thực tế, cả hai trường hợp đều sẽ dẫn đến kết quả không đúng.

Những dữ liệu từ hệ thống như thế này sẽ đem lại giá trị như thế nào, thưa ông?

Khi chúng tôi làm thiết bị này thì người ta cũng hỏi: “Ông bán cho ai? Cho nông dân, cho nhà nước, cho hợp tác xã?”. Thực ra, chúng tôi cung cấp dữ liệu cho những tổ chức chứng nhận cho người mua tín chỉ carbon. Chẳng hạn, hiện nay Nhật và Việt Nam đang thương lượng để ký Cơ chế tín dụng chung (JCM - Joint Crediting Mechanism). Nhật đã ký với rất nhiều nước rồi, mà Việt Nam thì vẫn còn đang thương lượng. Khi nào Việt Nam ký được cái đó, thì các công ty tư nhân của Nhật - các công ty cam kết với nhà nước sẽ giảm mấy trăm ngàn tấn khí nhà kính một năm chẳng hạn - họ sẽ qua Việt Nam để có thể thương lượng mua tín chỉ carbon. Vấn đề là ai cân đo đong đếm lượng carbon phát thải ở Việt Nam cho họ?

Chúng tôi sẽ là những doanh nghiệp thực hiện chuyện đó, cân đo đong đếm và cung cấp thông tin, dữ liệu cho những công ty chứng nhận hoặc các tổ chức chứng nhận về carbon. Công ty đó sẽ dùng dữ liệu mà chúng tôi cung cấp để chứng nhận cho phía người mua từ nước Nhật. Đó là mô hình kinh doanh mà chúng tôi đang hướng tới.

Cho tới bây giờ, báo chí cũng nhắc đến việc là chưa ai bán được tín chỉ carbon nào từ lúa. Vấn đề ở đây là người nông dân mình có thu nhập thấp nhất, thậm chí, những người lao động nông thôn còn thấp hơn nữa. Trách nhiệm của những người như chúng tôi là phải làm sao đó để giúp đất nước mình thực hiện thành công những dự án như trong Quyết định 1490. Đồng thời, người nông dân mình cũng có thu nhập cao hơn, có thêm một số tiền từ việc họ đóng góp vào chuyện giảm phát thải khí nhà kính.

Được biết RYNAN đã có rất nhiều giải pháp để chuyển đổi số cho nông nghiệp cũng như phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao như thiết bị giám sát côn trùng, nền tảng chuyển đối số cho các tỉnh,... Ông có gặp phải khó khăn nào khi triển khai những thiết bị như vậy trong thực tế?

Thật ra, ở Việt Nam mình có những công nghệ mới, tạo ra những sản phẩm ứng dụng rất thực tế trong đời sống hằng ngày. Nhưng vấn đề là mình không có cơ chế để áp dụng, và như vậy thì khó để triển khai trong thực tế.

Chẳng hạn như dự án giảm phát thải khí nhà kính này, nếu tôi làm và cung cấp cho nhà nước, thì sẽ cần đi đấu thầu khoảng chừng hai, ba trăm cái hệ thống vậy đó. Nhưng giờ đi đấu thầu thì quy trình là anh phải có hợp đồng đấu thầu cho những sản phẩm tương đương trước đó. Trong khi những sản phẩm như thế này toàn là sản phẩm mới chưa có ai làm, chưa có ở đâu. Không ai cho đấu thầu, nhưng nếu không đấu thầu thì cũng không làm được gì hết rồi.

Trước đó, chúng tôi xây dựng nguyên một nền tảng chuyển đổi số cho một tỉnh ở ĐBSCL, giúp hỗ trợ phát triển và họ đã sử dụng thử nghiệm được vài năm nay, nhưng đến bây giờ cũng chưa ký được hợp đồng tại vì chưa có luật lệ. Nếu ứng dụng được trong nước thì rất tốt, nhưng 95% doanh thu của công ty là nhờ bán sản phẩm ra nước ngoài, dù là phát triển sản phẩm với mong muốn được sử dụng ở trong nước.

Không phải là mình không có những thiết bị thông minh ở Việt Nam, nhưng mình không có cơ chế để ứng dụng những sản phẩm mới, mình có rất nhiều rào cản về thủ tục. Còn nếu được đấu thầu thì người ta chỉ quan tâm đến giá thấp, chứ không để ý đến chức năng mới và phù hợp hơn. Đó là những rào cản lớn nhất cho việc ứng dụng khoa học công nghệ./.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

Cố giữ lúa hay linh hoạt canh tác để nông dân có thu nhập nhiều hơn?

Cố giữ lúa hay linh hoạt canh tác để nông dân có thu nhập nhiều hơn?

Sản lượng cao giúp Việt Nam đạt thành tích là một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhiều năm qua, nhưng nông dân thường xuyên rơi vào cảnh thu nhập bấp bênh khi lúa rớt giá. Vậy có nên xem xét lại giữa sản xuất nhiều lúa và chuyển đổi một mức độ nào đó sang hướng khác mang lại nhiều lợi ích hơn hay không? 

Lúa gạo là ngành hàng chịu rủi ro biến động giá cả trong tiêu thụ rất lớn, dù Việt Nam là một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, thậm chí 70% nhu cầu nhập khẩu của Philippines là từ Việt Nam.

Năm 2025 dư 7,5 triệu tấn gạo cho xuất khẩu

Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trong báo cáo tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam, cho thấy giai đoạn từ năm 2020-2024, diện tích, sản lượng lúa gạo cả nước không có biến động lớn, tức được duy trì ổn định ở mức khá cao.

Theo đó, năm 2020, diện tích gieo sạ cả nước đạt 7,3 triệu héc ta, sản lượng lúa đạt 42,69 triệu tấn, đến năm 2024, diện tích gieo sạ đạt 7,1 triệu héc ta (giảm 200.000 héc ta so với năm 2020), nhưng sản lượng đạt 43,27 triệu tấn nhờ năng suất sản xuất tăng.

Từ kết quả sản xuất ấn tượng như nêu trên đã giúp Việt Nam “trụ vững” vị trí tốp ba quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới khi khối lượng xuất khẩu năm 2024 đạt 9,034 triệu tấn (theo số liệu báo cáo chính thức của Hiệp hội lương thực Việt Nam - VFA). Tuy nhiên, trong khối lượng gạo xuất khẩu năm ngoái còn có sự đóng góp từ lúa được nhập khẩu từ Campuchia.

Riêng năm 2025, kế hoạch diện tích gieo sạ cả nước đạt 7 triệu héc ta, tức giảm 100.000 héc ta so với năm 2024, nhưng năng suất dự kiến tăng, giúp sản lượng lúa cả năm dự kiến đạt 43,1 triệu tấn, giảm nhẹ khoảng 170.000 tấn so với 2024 

Theo đó, riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi chiếm 90% lượng gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước, năm 2025 kế hoạch gieo sạ đạt 3,778 triệu héc ta, sản lượng lúa thu hoạch đạt 23,965 triệu tấn.

Theo ông Phong, sau khi trừ đi cho nhu cầu tiêu dùng nội địa (gồm 28 triệu dân ở ĐBSCL và khu vực TPHCM), làm giống và thức ăn chăn nuôi với sản lượng khoảng 8,9 triệu tấn, thì phần còn dư có khả năng đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu dự kiến trên 15 triệu tấn lúa, tương đương trên 7,5 triệu tấn quy gạo.

Con số nêu trên chưa bao gồm lượng lúa gạo nhập khẩu, trong đó, lớn nhất là từ thị trường Campuchia. Ông Đỗ Hà Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, hai tháng đầu năm 2025 đã có khoảng 1,269 triệu tấn lúa gạo các loại nhập vào Việt Nam, trong đó có 1,142 triệu tấn lúa từ Campuchia. Trước đó, năm 2024 Việt Nam cũng nhập tổng cộng 4,518 triệu tấn lúa gạo.

Rõ ràng, sản lượng lúa gạo sản xuất quá lớn, như vụ đông xuân 2024-2025, riêng khu vực ĐBSCL có khoảng 10,3 triệu tấn lúa được cung ứng ra thị trường, tạo áp lực tiêu thụ rất lớn, khiến thị trường biến động mạnh. Điều này, làm lợi nhuận vụ lúa quan trọng nhất trong năm của người dân ở ĐBSCL chỉ khoảng 20-25 triệu đồng/héc ta như thực tế đang diễn ra.

Cần tính toán sản xuất lúa ở mức độ hợp lý hơn

Để giải quyết bài toán ngành gạo, tại một hội nghị mới đây ở thành phố Cần Thơ, ông Lê Thanh Tùng, Phó chủ tịch Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cho biết, về lâu dài cũng như trước mắt trong vụ hè thu 2025, nông dân/hợp tác xã cần phải giảm giá thành sản xuất.

Theo ông, quy trình sản xuất mới nằm trong đề án 1 triệu héc ta của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) giúp nông dân tiết kiệm 30% lượng giống gieo sạ; 30% phân, thuốc bảo vệ thực vật sử dụng so với phương thức canh tác truyền thống. Việc giảm giống, phân, thuốc cộng với giữ vững hoặc tăng năng suất lên giúp nông dân tăng nguồn thu khoảng 5 triệu đồng/héc ta, đây là giải pháp tăng cường “sức chịu đựng” cho nông dân.

Ông Tùng kiến nghị, cần thực hiện ngay chương trình canh tác giảm chi phí với diện tích 1 triệu héc ta, thay vì 200.000 héc ta như mục tiêu của đề án 1 triệu héc ta nhằm ứng phó với giá lúa thấp.

Trao đổi với KTSG Online, ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh ĐBSCL (VCCI ĐBSCL) đặt vấn đề, đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia là điều phải thực hiện, nhưng có cần thiết sản xuất quá dư thừa hay không?

“Chúng ta xuất khẩu nhiều là muốn làm giàu, thu ngoại tệ hay muốn thành tích để ghi nhận?”, ông Lam đặt câu hỏi và cho rằng, ngành nông nghiệp phải có nhận định, đánh giá tổng thể để đưa ra một lựa chọn mang nhiều lợi ích hơn.

Một lý do khác cho thấy cần tính toán sản xuất lúa ở một mức độ hợp lý hơn, theo vị giám đốc VCCI ĐBSCL. Để có 7-8 triệu tấn gạo dư ra phục vụ cho xuất khẩu hàng năm là sự đánh đổi rất lớn, gồm đất đai bạc màu, ô nhiễm môi trường, trong khi nông dân vẫn nghèo khó. Sản xuất lúa gạo đầu tiên là đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia nhưng phải gắn liền với sự hưởng lợi của người dân, ông nhấn mạnh.

Theo ông Lam, trong khi Việt Nam theo đuổi thành tích bán nhiều gạo, thì Thái Lan đang dần từ bỏ vị trí “vua gạo”, chuyển sang lĩnh vực khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Rõ ràng, khi Việt Nam dịch chuyển bớt một phần diện tích lúa sang các lĩnh vực khác, đồng nghĩa áp lực tiêu thụ cũng bớt đi, tức những rủi ro đang xảy ra trong ngành lúa gạo như hiện nay sẽ giảm.

Ông Lam gợi ý, Việt Nam đang có chiến lược phát triển 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, thì chỉ nên duy trì ở mức độ ổn định như vậy nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và phần nhỏ cho xuất khẩu. “Diện tích còn lại có thể chuyển sang các loại khác đã chứng minh được hiệu quả cao hơn trong thực tế”, ông nhấn mạnh và cho rằng, không nên đặt nặng thành tích của một ngành, mà phải nhìn con số tổng thể mới biết được lợi ích nào lớn hơn.

Trao đổi với KTSG Online, khi so sánh với một mặt hàng, cụ thể là trái thanh long, ông Nguyễn Quốc Trịnh, Chủ tịch Hiệp hội thanh long tỉnh Long An nhấn mạnh, dù có thời điểm lên, xuống khác nhau, nhưng lợi nhuận loại trái cây này mang lại cho nông dân không dưới 200 triệu đồng/héc ta/năm, tức cao hơn khá nhiều so với cây lúa.

Theo ông, với giá bán 30.000 đồng/kg như thời điểm hiện tại, sau khi trừ chi phí sản xuất, mỗi công (1.000 m2), một vụ thu hoạch đã giúp nông dân đạt lợi nhuận 15-20 triệu đồng/công và mỗi năm thu hoạch được nhiều lần.

Dĩ nhiên, việc so sánh như nêu trên chỉ ở một mức độ tương đối, nhưng rõ ràng trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất, vẫn có sự lựa chọn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với cây lúa.

Như vậy, đã đến lúc cần có nghiên cứu, xem xét một cách tổng thể để vừa đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, nhưng cũng vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng cao hơn giá trị xuất khẩu mang lại khi nhìn trên tổng thể. Qua đó, giúp cuộc sống của người nông dân tốt hơn nhờ thu nhập tăng thêm trên cùng một điều kiện, diện tích đất sản xuất.

Mô hình ứng dụng tàn dư cây họ đậu và than sinh học trong canh tác lúa bền vững

 Mô hình ứng dụng tàn dư cây họ đậu và than sinh học trong canh tác lúa bền vững

P.A.T - NASTIS

Tại nhiều vùng nông thôn, việc đốt bỏ rơm rạ và các tàn dư sau thu hoạch vẫn diễn ra phổ biến. Khói từ việc đốt đồng không chỉ gây ô nhiễm không khí mà còn làm mất đi một nguồn tài nguyên hữu ích. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, nông nghiệp cần hướng đến các phương pháp canh tác bền vững, tiết kiệm và thân thiện với môi trường. Một trong những giải pháp hiệu quả hiện nay là ứng dụng tàn dư cây họ đậu kết hợp với than sinh học vào sản xuất lúa. Đây là hướng đi phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, dễ áp dụng và mang lại nhiều lợi ích thiết thực.

 

 

Mô hình ứng dụng tàn dư cây họ đậu và than sinh học trong canh tác lúa bền vững được phát triển bởi chị Đoàn Thị Trúc Linh. Chị Linh đã phối hợp với Khoa Khoa học Đất, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Nông nghiệp và Công nghệ Tokyo, Nhật Bản, để nghiên cứu và triển khai giải pháp này.

Than sinh học được sản xuất từ vỏ trấu bằng công nghệ nhiệt phân kiểm soát ở nhiệt độ cao, giữ lại hàm lượng carbon lớn. Khi bón xuống ruộng, loại than này giúp cải thiện tính chất vật lý của đất, tăng khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng và cung cấp thêm các nguyên tố như kali, phốt pho. Đặc biệt, than sinh học có khả năng giữ carbon trong đất, góp phần giảm phát thải khí nhà kính, hạn chế hiện tượng rửa trôi phân bón.

Tàn dư của cây họ đậu, đặc biệt là đậu xanh, cũng mang lại nhiều lợi ích khi được vùi vào đất sau thu hoạch. Cây họ đậu có khả năng cố định đạm tự nhiên, tăng hàm lượng nito trong đất mà không cần đến phân bón hóa học. Việc sử dụng tàn dư cây đậu giúp tăng chất hữu cơ, thúc đẩy hệ vi sinh vật có lợi phát triển, từ đó cải thiện độ phì nhiêu và cấu trúc đất.

Thay vì để đất trống sau vụ Đông Xuân, mô hình mới khuyến khích nông dân trồng đậu xanh trong vụ Xuân Hè. Sau khi thu hoạch đậu, thân và lá cây được vùi lại vào đất để cung cấp chất hữu cơ. Kết hợp với bón than sinh học trong vụ lúa tiếp theo, mô hình này tạo ra chu trình dinh dưỡng khép kín, giảm phụ thuộc vào phân bón vô cơ, đồng thời tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường.

Công nghệ sản xuất than sinh học từ vỏ trấu rất phù hợp với điều kiện nông thôn Việt Nam. Vỏ trấu luôn có sẵn sau mỗi vụ xay xát, chi phí thấp, và có thể chế biến ở quy mô nhỏ. Nông dân có thể mua than sinh học từ các đơn vị sản xuất hoặc tự làm nếu có điều kiện.

Việc áp dụng mô hình này đã chứng minh được hiệu quả thực tiễn. Năng suất lúa có thể giữ ổn định hoặc tăng so với canh tác truyền thống. Lượng phân bón vô cơ sử dụng giảm từ 15–30%, nhờ vậy chi phí sản xuất được cắt giảm đáng kể. Lúa thu hoạch có chất lượng tốt hơn, tăng giá trị thương phẩm. Ngoài ra, việc tận dụng tàn dư đậu xanh và vỏ trấu giúp giảm chi phí xử lý chất thải, tránh lãng phí nguồn tài nguyên.

Mô hình này phù hợp với điều kiện canh tác tại nhiều địa phương, nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây có sản lượng lúa cao, lượng phụ phẩm lớn và thường xuyên đối mặt với thách thức từ biến đổi khí hậu. Việc triển khai mô hình không yêu cầu hạ tầng phức tạp, không cần thiết bị hiện đại, rất phù hợp với nông hộ nhỏ lẻ. Các chính sách khuyến nông hiện nay cũng đang ưu tiên mô hình canh tác xanh, bền vững, nên việc tiếp cận hỗ trợ kỹ thuật và tài chính là hoàn toàn khả thi.

Giải pháp này không chỉ có lợi cho người sản xuất mà còn có ý nghĩa với cộng đồng. Việc giảm đốt rơm rạ và phân đạm hóa học góp phần hạn chế phát thải CO₂ và N₂O, hai khí gây hiệu ứng nhà kính. Đất được cải tạo theo hướng tự nhiên, giữ ẩm tốt hơn, tơi xốp hơn, giúp cây trồng phát triển khỏe mạnh, ít sâu bệnh hơn. Hệ sinh thái đất trở nên cân bằng, từ đó nâng cao sức chống chịu của cây trồng trước biến đổi khí hậu.

Ứng dụng tàn dư cây họ đậu và than sinh học trong canh tác lúa là một bước đi thực tế, hiệu quả và dễ triển khai. Giải pháp này tận dụng tối đa nguồn tài nguyên sẵn có, giảm chi phí, cải thiện năng suất, và đặc biệt là góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững. Với điều kiện hiện tại của nông nghiệp Việt Nam, đây là mô hình có tiềm năng lan rộng và tạo ra thay đổi tích cực cho cả người dân lẫn môi trường. Việc nhân rộng mô hình không chỉ là câu chuyện của hiệu quả canh tác, mà còn là cách để chung tay xây dựng tương lai nông nghiệp thân thiện và thông minh hơn.

Tiềm năng giảm phát thải, tạo tín chỉ carbon từ ứng dụng công nghệ tưới AWD trong canh tác lúa

Tiềm năng giảm phát thải, tạo tín chỉ carbon từ ứng dụng công nghệ tưới AWD trong canh tác lúa

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường; Jun Okita, Green Carbon. Theo VnEconomy

Với tiềm năng mở rộng diện tích canh tác theo hướng thân thiện khí hậu, các địa phương như Nghệ An có thể xây dựng hệ thống xác minh lượng phát thải giảm từ các mô hình công nghệ tưới ngập khô xen kẽ- AWD, từng bước thiết lập nền tảng giao dịch tín chỉ carbon cho nông nghiệp. Đây là nền tảng để xây dựng cơ chế tài chính xanh, giúp thu hút đầu tư cho ngành nông nghiệp; đồng thời là tiền đề quan trọng để xây dựng chính sách tín chỉ carbon trong nông nghiệp...

Công nghệ tưới ngập khô xen kẽ (AWD) đang dần định hình một hướng đi mới trong sản xuất nông nghiệp ứng phó biến đổi khí hậu. Khi áp dụng rộng rãi trong canh tác lúa, công nghệ đóng vai trò trong sử dụng hiệu quả tài nguyên nước và làm giảm rõ rệt lượng khí mê-tan phát thải từ ruộng lúa. Sự hình thành các lớp đất luân phiên khô và ướt tạo điều kiện hiếu khí, khiến các vi sinh vật yếm khí mất môi trường hoạt động, qua đó làm suy giảm tốc độ phân hủy hữu cơ sinh khí nhà kính.

Quá trình được duy trì nhờ kỹ thuật canh tác chính xác, áp dụng các quy trình theo dõi chặt chẽ, từ kiểm soát mực nước đến thời điểm tưới lại. Kết quả của quá trình là giảm phát thải và tạo ra một sản phẩm có thể đo lường và quy đổi thành lợi ích kinh tế thông qua tín chỉ carbon. Tín chỉ trở thành công cụ để khuyến khích người nông dân duy trì và nhân rộng mô hình, đồng thời kết nối sản xuất nông nghiệp với các thị trường bền vững có cam kết khí hậu.

GIẢM PHÁT THẢI TRONG CANH TÁC LÚA VỚI CÔNG NGHỆ TƯỚI KHÔ XEN KẼ AWD

Do canh tác lúa truyền thống là một trong những nguồn phát thải khí mê-tan chính của khu vực nông thôn, những thay đổi kỹ thuật đơn giản nhưng hiệu quả như AWD có khả năng tạo ra lượng lớn đơn vị tín chỉ, phục vụ cho các công ty, tổ chức và quốc gia đang cần bù đắp phát thải. Cơ chế tạo ra vòng quay lợi ích kép, vừa giúp người dân thu được nguồn thu ổn định, vừa hỗ trợ thực hiện các mục tiêu giảm phát thải quốc gia.

Khi đã xây dựng được hệ thống giám sát chặt chẽ, lượng mê-tan giảm có thể được ghi nhận và đưa lên các nền tảng tín chỉ tự nguyện.

Thành công của mô hình AWD trong sản xuất lúa phụ thuộc lớn vào khả năng thích ứng linh hoạt của nông dân đối với các phương pháp canh tác mới. Các cộng đồng nông thôn cần tiếp cận với thông tin kỹ thuật đầy đủ, các khóa đào tạo về điều tiết nước theo chu kỳ sinh trưởng của cây lúa, cũng như hướng dẫn đo đạc và theo dõi mực nước. Áp dụng công nghệ cảm biến mực nước, hệ thống dữ liệu trực tuyến hoặc mô hình cảnh báo sớm cũng giúp nâng cao hiệu quả điều hành trong thực tế sản xuất.

 

Description: Mô hình tưới ngập truyền thông và mô hình tưới ngập khô xen kẽ AWD.

Mô hình tưới ngập truyền thông và mô hình tưới ngập khô xen kẽ AWD. 

Khi các thông tin được chia sẻ nhanh chóng, kịp thời, nông dân có thể điều chỉnh phương pháp tưới phù hợp với điều kiện thời tiết và giai đoạn phát triển của cây lúa, đảm bảo vừa tiết kiệm tài nguyên vừa không làm giảm năng suất. Nhờ đó, quy trình sản xuất vẫn đáp ứng được yêu cầu chất lượng lúa gạo, đồng thời tạo ra các đơn vị carbon được chứng nhận, đủ tiêu chuẩn để tham gia thị trường tín chỉ quốc tế.

Khác với các lĩnh vực như năng lượng hay công nghiệp, tiềm năng giảm phát thải trong nông nghiệp thường bị đánh giá thấp do khó khăn trong đo lường và thiếu các hệ thống kiểm chứng hiệu quả.

Tuy vậy, công nghệ AWD mở ra cơ hội vượt qua các rào cản. Sự ổn định trong mô hình tưới, khả năng kiểm soát các yếu tố đầu vào và đầu ra, cùng với tiến bộ kỹ thuật số trong nông nghiệp đã tạo điều kiện để minh bạch hóa quy trình đo đếm. Hệ thống Blockchain, công nghệ vệ tinh, trí tuệ nhân tạo đang từng bước được đưa vào quá trình giám sát nông nghiệp, hỗ trợ xác minh các chỉ số khí hậu từ cấp độ ruộng

Việc kết hợp giữa khoa học nông nghiệp truyền thống và công nghệ hiện đại giúp chuyển hóa các hoạt động nhỏ lẻ thành hệ thống sản xuất có thể định lượng, qua đó đủ điều kiện tham gia vào hệ sinh thái tài chính carbon toàn cầu.

Đối với người nông dân, lợi ích lớn nhất từ tham gia chương trình tín chỉ carbon thông qua AWD là khả năng cải thiện sinh kế ngay trên chính ruộng đồng của mình. Ngoài khoản thu tăng thêm từ tín chỉ carbon, người dân còn giảm được chi phí bơm nước, sử dụng phân bón hợp lý hơn, kiểm soát sâu bệnh hiệu quả hơn, nhờ đó giảm gánh nặng tài chính cho mỗi vụ mùa.

Bên cạnh đó, khả năng kết nối với các thị trường tiêu thụ gạo chất lượng cao và thân thiện môi trường cũng tăng lên, mở rộng khả năng thương mại nông sản. Các tổ chức tài chính, quỹ hỗ trợ nông nghiệp và các doanh nghiệp chế biến có thể đóng vai trò trung gian, tạo cầu nối giữa người trồng lúa và các tổ chức cần bù đắp carbon, từ đó thúc đẩy chuỗi giá trị nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững và thích ứng khí hậu.

Tiềm năng tạo tín chỉ carbon từ ứng dụng công nghệ AWD thể hiện rõ qua kết quả thực địa tại Nghệ An trong vụ hè thu năm 2024.

Tính toán thực tế cho thấy lượng giảm phát thải khí nhà kính đạt 71.088,3 tấn CO2e trên diện tích 11.152,5 ha, phản ánh hiệu quả vượt trội của công nghệ tưới AWD khi so sánh với kết quả vụ xuân cùng năm. Diện tích áp dụng lớn và khả năng giảm phát thải cao mở ra cơ hội rõ ràng để phát triển thị trường tín chỉ carbon. Đây là nền tảng để xây dựng cơ chế tài chính xanh, giúp thu hút đầu tư cho ngành nông nghiệp.

Mô hình canh tác lúa trong nghiên cứu bao gồm cả phương pháp gieo sạ và cấy truyền thống. Trong đó, diện tích gieo sạ đạt 9.277,9 ha, giảm phát thải 6,3 tấn CO2e/ha, tổng cộng 58.487,0 tấn. Lúa cấy tuy chiếm diện tích nhỏ hơn với 1.874,6 ha nhưng giảm phát thải 6,7 tấn CO2e/ha, đạt tổng cộng 12.601,3 tấn.

Cả hai phương pháp đều cho thấy tiềm năng giảm thiểu khí nhà kính đáng kể. Mỗi hecta canh tác chuyển đổi sang tưới ướt khô xen kẽ là một bước tiến trong quá trình giảm phát thải nông nghiệp.

HƯỚNG ĐI PHÙ HỢP VỚI CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Điều kiện tự nhiên tại Nghệ An phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của công nghệ tưới AWD. Khí hậu và nguồn nước tại đây hỗ trợ tốt cho duy trì chu kỳ tưới ngắt quãng. Hệ thống thủy lợi của tỉnh đã được đầu tư tương đối đồng bộ, có thể đảm bảo khả năng cấp thoát nước linh hoạt, đáp ứng các giai đoạn phát triển của cây lúa. Đây là một trong những yếu tố then chốt giúp mô hình đạt hiệu quả thực tế và có thể triển khai rộng khắp. 

Đáng chú ý, với địa hình bằng phẳng tại nhiều huyện trồng lúa lớn như Yên Thành, Diễn Châu, Hưng Nguyên tạo điều kiện thuận lợi cho áp dụng chế độ tưới phân bổ hợp lý. Kiểm soát mực nước mặt ruộng trở nên khả thi và dễ dàng hơn, nhờ đó nâng cao hiệu quả điều tiết nước, giảm lãng phí và tăng hiệu quả hấp thu dinh dưỡng của cây trồng. Tính ổn định của đất canh tác cũng giúp hạn chế rủi ro do xói mòn hoặc rò rỉ nước trong hệ thống mương máng tưới tiêu.

Với tiềm năng mở rộng diện tích canh tác theo hướng thân thiện khí hậu, các địa phương như Nghệ An có thể xây dựng hệ thống xác minh lượng phát thải giảm từ các mô hình AWD, từng bước thiết lập nền tảng giao dịch tín chỉ carbon cho nông nghiệp. Để thực hiện cần có hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế, chương trình phát triển nông nghiệp xanh và các quỹ khí hậu.

Tại các xã tham gia mô hình này đã được đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật tưới AWD. Người dân địa phương được hướng dẫn cách xác định thời điểm tưới phù hợp dựa trên quan sát nứt đất mặt ruộng hoặc qua thiết bị đo mực nước.

Nhận thức của nông dân về hiệu quả kinh tế và môi trường của phương pháp ngày càng cải thiện. Nhiều hộ dân cho biết mức sử dụng nước giảm khoảng 30–40% mà năng suất vẫn giữ ổn định, khuyến khích họ tiếp tục duy trì áp dụng trong các vụ tiếp theo.

So sánh giữa tưới AWD và tưới ngập truyền thống cho thấy những khác biệt đáng kể. Trong điều kiện thời tiết bất lợi, phương pháp tưới AWD vẫn giữ được tính ổn định trong sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Tình trạng đổ ngã do dư nước được hạn chế. Tỷ lệ phát thải khí metan giảm rõ rệt nhờ giai đoạn khô xen kẽ, làm gián đoạn quá trình yếm khí tạo khí nhà kính trong đất. Như vậy, lợi ích môi trường được song hành với lợi ích năng suất.

Dữ liệu từ mô hình cho thấy tỷ lệ giảm phát thải CO2e lên đến hơn 50% so với phương pháp truyền thống. Cụ thể, mức giảm ở lúa gieo sạ là 60,11%, còn ở lúa cấy là 52,94%. Đây là cơ sở quan trọng để tính toán tín chỉ carbon, đưa vào các cơ chế tài chính carbon trong nước và quốc tế. Mỗi tấn CO2e giảm phát thải tương ứng một tín chỉ carbon, có thể chuyển nhượng, mua bán hoặc tích lũy làm công cụ huy động tài chính phục vụ tái đầu tư.

Hiệu quả từ mô hình tại Nghệ An chứng minh khả năng mở rộng ứng dụng tưới AWD sang các tỉnh đồng bằng hoặc miền trung du có hệ thống thủy lợi tương tự là hoàn toàn khả thi. Lợi ích không chỉ nằm ở mức giảm phát thải mà còn thể hiện ở khả năng giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường sống.

Đây là hướng đi phù hợp với chiến lược phát triển nông nghiệp ứng phó biến đổi khí hậu, góp phần đưa Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu trung hòa carbon.

Từ các kết quả nghiên cứu đã có, có thể khẳng định mô hình tưới ướt khô xen kẽ tại Nghệ An là tiền đề quan trọng để xây dựng chính sách tín chỉ carbon trong nông nghiệp.

Phát triển hệ thống đo đạc, giám sát và xác minh (MRV) là điều cần thiết nhằm đảm bảo tính minh bạch và chính xác cho các hoạt động giao dịch tín chỉ. Cơ sở khoa học và thực tiễn của nghiên cứu có thể làm nền tảng để xây dựng các phương án nhân rộng trong các chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu.

Tăng tốc nhân rộng mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp

 Tăng tốc nhân rộng mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp

Minh Sáng - NNMT 

Các mô hình lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL cho thấy hiệu quả rõ rệt, giảm phát thải khí nhà kính, tăng năng suất, chất lượng và thu nhập cho nông dân.

Kết hợp hữu cơ - phát thải thấp - công nghệ cao

Vụ hè thu năm 2025, các địa phương vùng ĐBSCL tiếp tục triển khai 6 mô hình canh tác lúa giảm phát thải và mở rộng thêm 5 mô hình mới. Đồng thời, các đơn vị phối hợp với Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và Ngân hàng Thế giới (WB) thí điểm quy trình giám sát - báo cáo - thẩm định (MRV) nhằm đánh giá mức độ phát thải trong sản xuất lúa.

Kết quả bước đầu cho thấy nông dân giảm được đáng kể chi phí đầu vào, trong khi năng suất và chất lượng lúa vẫn được đảm bảo, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất và lợi nhuận.

HTX Hưng Lợi (xã Đại Ngãi, TP Cần Thơ) là một trong những đơn vị tiên phong thực hiện mô hình sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng hữu cơ, giảm phát thải. Vụ hè thu năm nay, HTX triển khai mô hình trên diện tích 50 ha với 42 hộ nông dân tham gia. Đây là mô hình thuộc dự án khuyến nông Trung ương năm 2025 - 2026: “Xây dựng mô hình sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải phục vụ Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa vùng ĐBSCL”.

Mô hình được hỗ trợ kỹ thuật từ Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và Công ty cổ phần Hóa Nông AHA, đặc biệt là ứng dụng công nghệ phun khoáng bằng dây bay giúp phân phối dinh dưỡng đồng đều và tiết kiệm nhân công.

Ông Phạm Hoàng Trân, thành viên HTX Hưng Lợi chia sẻ: “Tham gia mô hình, chúng tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt sau khi áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới. Chi phí đầu vào giảm, đặc biệt là phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Lúa phát triển khỏe, ít sâu bệnh, quan trọng hơn là được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm với giá tốt. Bà con rất yên tâm và phấn khởi khi gắn bó với mô hình”.

Theo ông Trân, ban đầu bà con còn e ngại do chưa quen quy trình mới nhưng sau vài vụ thực hiện và nhìn thấy hiệu quả thực tế, nhiều nông dân đã tin tưởng và tích cực tham gia. Trong hai vụ trước, mô hình đã cho kết quả khả quan nên vụ này HTX mạnh dạn mở rộng diện tích và ứng dụng thêm kỹ thuật canh tác hữu cơ. Hiện lúa đang ở giai đoạn trổ, sinh trưởng tốt, chi phí giảm rõ rệt, hứa hẹn một vụ mùa thành công.

Ông Lý Công Chức, Giám đốc Kỹ thuật của HTX Hưng Lợi cho biết: “Vụ này HTX áp dụng kỹ thuật sạ thưa (mật độ 60 - 70 kg/ha) kết hợp quy trình canh tác hữu cơ và bổ sung khoáng chất vi lượng như lân nung chảy, kali, canxi, magiê… bón thành 5 đợt theo từng giai đoạn sinh trưởng. Hiện HTX mới triển khai bón 3 đợt và cho thấy hiệu quả rõ rệt, lá lúa xanh, rễ khỏe, hạn chế sâu bệnh và đổ ngã, năng suất dự kiến vẫn giữ ổn định”.

Theo ông Chức, trước đây HTX từng áp dụng các mô hình như “1 phải, 3 giảm” hay “3 giảm, 3 tăng” nhằm nâng cao năng suất. Với mô hình giảm phát thải hiện tại, việc quản lý nước được thực hiện nghiêm ngặt, rút nước 3 lần trong một vụ kết hợp bón khoáng, giúp duy trì năng suất, nâng cao rõ rệt chất lượng hạt lúa.

Ngoài ra, mô hình còn ứng dụng bèo hoa dâu (Azolla) để tạo phân hữu cơ trực tiếp tại ruộng, đồng thời giúp quản lý cỏ dại và ốc bươu vàng, góp phần tăng hiệu quả sinh thái và kinh tế. Đây là những điểm cải tiến đáng chú ý, phù hợp với xu hướng sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu.

“Dù chưa thu hoạch nhưng với tình hình hiện nay, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào một vụ mùa bội thu. Điều quan trọng là bà con được doanh nghiệp đồng hành và hỗ trợ đầu ra sản phẩm. Chúng tôi mong muốn các cơ quan chức năng và doanh nghiệp tiếp tục đồng hành để mở rộng mô hình này, giúp thêm nhiều nông dân tiếp cận và hưởng lợi”, ông Chức nhấn mạnh.

Tích cực chuyển đổi xanh trong nông nghiệp

Thành công bước đầu của các mô hình sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải là tiền đề thuận lợi để các địa phương trong vùng ĐBSCL tiếp tục nhân rộng, góp phần triển khai hiệu quả Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh đến năm 2030 (Đề án 1 triệu ha lúa).

Ông Ngô Xuân Chinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao Tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) cho biết: “Khi được giao triển khai mô hình tại 4 tỉnh trọng điểm của ĐBSCL, chúng tôi đặc biệt chú trọng liên kết chặt chẽ với nông dân và HTX. Tại những nơi chưa có tổ hợp tác hoặc HTX, chúng tôi phối hợp thành lập mới. Với các HTX hiện hữu, chúng tôi hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động và kết nối thành viên cùng tham gia xây dựng mô hình”.

Theo ông Chinh, tùy điều kiện thổ nhưỡng và đặc điểm canh tác của từng vùng, Trung tâm tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu, điều chỉnh kỹ thuật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo đảm các tiêu chí về chất lượng và giảm phát thải khí nhà kính. Việc chuyển giao được thực hiện đồng bộ, giúp nông dân nắm bắt kỹ thuật nhanh chóng và ứng dụng hiệu quả.

Tại buổi sơ kết, chia sẻ kinh nghiệm triển khai thực hiện mô hình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải do Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cùng các đơn vị liên quan tổ chức tại Cần Thơ mới đây, ông Hoàng Tuyển Phương, Trưởng Phòng Khuyến nông - Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia) cho biết: “Việc triển khai quy trình MRV bước đầu thực hiện thuận lợi, nhận được sự đồng thuận và đánh giá cao từ người dân cũng như chính quyền địa phương”.

Các mô hình canh tác lúa chất lượng cao và phát thải thấp không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn tạo hiệu quả rõ rệt về môi trường. Theo thống kê, nông dân đã giảm đáng kể chi phí sản xuất, giảm lượng giống gieo sạ từ 30 – 50%, giảm lượng phân bón hóa học từ 30 – 70%, giảm từ 1 – 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật và tiết kiệm 30 – 40% lượng nước tưới.

Năng suất lúa tăng từ 2,4 – 7%, thu nhập của nông dân tăng từ 12 – 50%, tương đương lợi nhuận tăng từ 4 – 7,6 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống. Đồng thời, lượng phát thải khí nhà kính giảm trung bình 2 – 12 tấn CO₂/ha. Đặc biệt, sản phẩm từ mô hình thường được doanh nghiệp bao tiêu với mức giá cao hơn thị trường từ 200 – 300 đồng/kg. Tuy nhiên, quá trình triển khai Đề án 1 triệu ha lúa vẫn đang gặp không ít khó khăn.

Bà Huỳnh Kim Định, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chia sẻ: “Việc thực hiện Đề án vẫn còn nhiều trở ngại bởi đây là lần đầu tiên Việt Nam thực hiện giảm phát thải trong sản xuất lúa một cách toàn diện. Các nội dung đều mới mẻ, chưa có tiền lệ để tham khảo. Do đó, đòi hỏi các địa phương phải chủ động, sáng tạo, linh hoạt huy động nguồn lực, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tiễn”.

Bên cạnh đó, bà Định nhấn mạnh vai trò của các tổ chức quốc tế và nhà tài trợ trong việc tiếp tục đồng hành, hỗ trợ nguồn lực và chia sẻ kinh nghiệm để ĐBSCL có thể từng bước chuyển mình từ sản xuất lúa truyền thống sang nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và tăng trưởng xanh.

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các cơ quan chức năng trung ương và địa phương đang tích cực hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các HTX, nông dân và doanh nghiệp; khuyến khích liên kết theo chuỗi giá trị, hướng đến nền sản xuất lúa hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu và đóng góp vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Những mô hình như tại HTX Hưng Lợi cho thấy khi được hỗ trợ đúng hướng về kỹ thuật, đầu tư và liên kết tiêu thụ, nông dân hoàn toàn có thể chuyển đổi sang phương thức sản xuất thân thiện với môi trường mà vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế. Việc nhân rộng các mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên mà còn mở ra hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị và vị thế hạt gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.